Go to full page →

Chương 40—MỘT ĐÊM TRÊN BIỂN HỒ CCC2 83

Dựa theo Ma-thi-ơ 14:22-33; Mác 6:45-52; Giăng 6:14-21

Một buổi chiều xuân, đoàn dân đông ngồi trên đồng cỏ trải dài, dùng thức ăn Đấng Cứu Thế đã cung cấp cho. Những lời họ nghe hôm đó đã đến với họ như tiếng phán của Đức Chúa Trời. Những bệnh tật được chữa lành mà họ đã chứng kiến chỉ có thể do quyền năng của Chúa thực hiện mà thôi. Nhưng phép lạ hóa bánh ra nhiều đã đánh động từng người trong đoàn dân đông. Ai cũng được ăn bánh cả. Vào thời Môi-se, Đức Chúa Trời đã nuôi dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng; nhưng ai đã nuôi họ trong những ngày đó nếu không phải là Đấng mà Môi-se đã báo trước? Chẳng có quyền phép nào của con người có thể tạo nên đủ đồ ăn cho năm ngàn người đang đói được ăn no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ. Và họ nói với nhau: “Người này thật là đấng tiên tri phải đến thế gian”. CCC2 83.1

Suốt ngày hôm đó, nhận thức này được củng cố. Phép lạ đáng nhớ ấy là bảo đảm rằng Đấng Giải Cứu hằng được mong đợi lâu nay đang ở giữa họ. Đoàn dân tràn trề hi vọng. Đây là Đấng sẽ làm cho Giu-đê trở thành một vườn địa đàng, một vùng đất đượm sữa và mật. Ngài có thể thỏa mãn mọi mong ước. Ngài có thể bẻ gãy quyền lực của bọn người La-mã đáng ghét. Ngài có thể giải phóng Giu-đê và Giê-ru-sa-lem. Ngài có thể chữa lành những người lính bị thương trong chiến trận. Ngài có thể cung cấp lương thực cho cả đoàn quân. Ngài có thể chinh phục các quốc gia, và ban cho Y-sơ-ra-ên quyền thống trị bao lâu nay họ hằng tìm kiếm. Trong niềm phấn khích, đoàn dân sẵn sàng tôn Đức Chúa Giê-su lên làm vua. Họ thấy Ngài chẳng làm gì để lôi cuốn sự chú ý và vinh dự cho riêng mình. Về điểm này, so với các thầy tế lễ và các quan trưởng, Ngài hoàn toàn khác và họ sợ rằng Ngài sẽ chẳng bao giờ đòi quyền ngự trên ngai Đa-vít. Họ tham khảo ý kiến nhau và thỏa thuận giữ Ngài bằng vũ lực và tôn Ngài làm vua Y-sơ-ra-ên. Các môn đồ thống nhất với đám đông trong việc tuyên bố ngai Đa-vít là của thừa kế hợp pháp của Thầy họ. Theo họ nói, chính vì khiêm nhường mà Đấng Cứu Thế đã từ chối vinh dự đó. Hãy để dân chúng tôn vinh Đấng Giải Cứu của họ. Các thầy tế lễ và các quan trưởng ngạo mạn bắt buộc phải tôn vinh Đấng đến với uy quyền của Đức Chúa Trời. CCC2 83.2

Họ hăm hở giàn xếp để thực hiện ý định. Nhưng Đức Chúa Giê-su nhìn thấy điều đang diễn ra dưới chân Ngài và biết, nhưng họ không thể biết được, điều gì sẽ là kết quả của một phong trào như thế. Vả bây giờ, các thầy tế lễ và các quan trưởng còn đang săn đuổi mạng sống của Ngài. Họ tố cáo Ngài đã lôi cuốn dân chúng khỏi họ. Bằng bạo loạn và chống đối, các môn đồ và dân chúng sẽ cố gắng đưa Ngài lên ngai, và công việc của nước thiêng liêng sẽ bị cản trở. Phong trào phải được chặn lại không chút chậm trễ. Đức Chúa Giê-su gọi các môn đồ lại và bảo họ lên thuyền trở về Ca-bê-na-um ngay tức khắc, để Ngài ở lại giải tán dân chúng. CCC2 84.1

Từ trước đến nay chưa hề có một mệnh lệnh nào của Đấng Cứu Thế xem ra không thể thi hành được như mệnh lệnh này. Các môn đồ lâu nay đã hi vọng một phong trào quần chúng nổ ra để đưa Đức Chúa Giê-su lên ngai; họ đã không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ là tất cả sự phấn khích này lại chẳng dẫn tới đâu cả. Đoàn dân đông đang nhóm họp để mừng lễ vượt Qua ao ước được thấy vị tiên tri mới. Đối với những kẻ theo Ngài thì đây là một cơ hội ngàn vàng để lập Thầy yêu quý của họ làm vua Y-sơ-ra-ên. Trong ánh sáng rực rỡ của tham vọng mới này, quả là khó khăn đối với họ khi phải bỏ đi nơi khác và để lại Đức Chúa Giê-su một mình trên bờ biển hoang vắng đó. Họ phản đối cách xử sự này; nhưng Đức Chúa Giê-su lúc này đã phán với một uy quyền Ngài chưa hề tỏ ra với họ trước đây. Biết rằng có chống lại thì cũng vô ích thôi, nên họ im lặng mà xuống thuyền. CCC2 84.2

Đức Chúa Giê-su ra lệnh giải tán đám đông. Thái độ của Ngài dứt khoát đến độ họ không thể không tuân theo. Những lời tán tụng và tôn vinh tắt lịm trên môi. Những bước chân tiến lên để định chụp lấy Ngài đã phải dừng lại, những gương mặt hớn hở giờ đây đã xịu xuống. Trong đám đông cũng có những người có ý chí kiên cường, nhưng thái độ đường bệ của Đức Chúa Giê-su và mây lời ra lệnh đơn giản đã đánh tan sự ồn ào, làm thất vọng các toan tính của họ. Họ nhận ra nơi Ngài có một quyền lực vượt lên trên tất cả các uy quyền thế gian và họ chịu thuần phục mà không dám tra hỏi gì cả. CCC2 84.3

Khi chỉ còn lại một mình, Đức Chúa Giê-su “lên núi để cầu nguyện riêng”. Ngài cầu xin Đức Chúa Trời thật lâu, không phải cho Ngài, mà cho loài người. Ngài cầu xin có được quyền năng bày tỏ cho loài người thần tính trong sứ mạng của Ngài, hầu cho Sa-tan không thể làm cho trí hiểu của họ ra mù quáng và hủy hoại đi khả năng suy xét phán đoán của họ. Chúa Cứu Thế biết rằng những ngày Ngài đích thân thi hành sứ mạng trên trái đất đã sắp sửa kết thúc, và mới chỉ có ít người tiếp nhận Ngài là Đấng Cứu Chuộc mà thôi. Trong đau đớn và giằng xé của linh hồn, Ngài cầu nguyện cho các môn đồ. Họ sẽ phải chịu đựng những thử thách cam go. Những hi vọng lâu nay họ ấp ủ, dựa trên ảo tưởng của quần chúng, đã bị sụp đổ một cách đau đớn ê chề. Thay vì tôn vinh Ngài lên ngai Đa-vít, họ sẽ phải chứng kiến việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá. Đây mới là sự lên ngôi thực sự của Ngài. Nhưng họ đã không nhận ra điều đó, và như vậy, những cơn cám dỗ nặng nề sẽ đến với họ, và họ khó có thể nhận ra đó là những cám dỗ. Nếu không có Đức Thánh Linh soi sáng đầu óc và mở rộng trí hiểu, lòng tin của các môn đồ sẽ yếu dần. Đức Chúa Giê-su đau đớn khi thấy rằng quan niệm của họ về nước của Ngài bị giới hạn ở tham vọng mở rộng lãnh thổ và danh vọng trần thế. Lòng Ngài nặng trĩu khi nghĩ tới họ và Ngài đau đớn thốt ra những lời khẩn cầu trong nước mắt. CCC2 84.4

Các môn đồ đã không rời khỏi xứ tức khắc theo lệnh Đức Chúa Giê-su. Họ nấn ná một lúc, hi vọng Ngài sẽ đến với họ. Nhưng khi thấy màn đêm buông xuống, họ “vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca-bê-na-um”. Họ đã rời khỏi Đức Chúa Giê-su mà đem theo một cõi lòng tràn trề sự bất mãn, khó chịu về Ngài hơn trước đây, khi biết Ngài là Chúa của họ. Họ càu nhàu vì không được phép tôn Ngài làm vua. Họ trách mình đã quá vội vàng nghe theo lệnh truyền của Ngài. Họ lý luận rằng nếu họ kiên trì hơn thì hẳn là họ đã thực hiện được mục tiêu của mình rồi. CCC2 85.1

Sự vô tín đang lan dần và rồi xâm chiếm trọn tâm trí họ. Lòng yêu thích danh vọng đã làm họ ra mù quáng. Họ biết rằng người Pha-ri-si thù ghét Đức Chúa Giê-su, và hăm hở muốn thấy Ngài được tôn vinh vì nghĩ rằng Ngài đáng được hưởng như thế. Được kết hợp với một người Thầy có thể làm những phép lạ lớn lao, nhưng lại bị sỉ vả như những kẻ lừa dối, quả là một thử thách họ khó có thể chịu đựng nổi. Phải chăng họ sẽ luôn bị coi là những người đi theo một tiên tri giả? Đấng Cứu Thế sẽ chẳng bao giờ khảng định uy quyền của Ngài với tư cách là vua? Tại sao Ngài vốn có một quyền năng như vậy mà lại không chịu bày tỏ mình với tư cách đích thực và làm cho đường họ đi bớt chông gai? Tại sao Ngài lại không giải thoát Giăng Báp-tít khỏi cái chết đau đớn? Cứ thế, các môn đồ lý luận cho đến khi họ làm cho lòng mình bị sự tối tăm dày đặc bao phủ. Họ thắc mắc: Liệu Đức Chúa Giê-su có phải là một kẻ lừa bịp như người Pha-ri-si khẳng định hay không? CCC2 85.2

Hôm đó, các môn đồ đã được chứng kiến những việc làm lạ lùng của Đấng Cứu Thế. Cứ như là thiên đàng đã dời xuống trái đất. Ký ức về ngày quý báu và vinh hiển ấy làm họ đầy lòng tin và hi vọng. Nếu họ tiếp tục nói với nhau từ sự dạt dào tình cảm về những việc làm ấy, hẳn là họ sẽ không rơi vào cơn cám dỗ. Nhưng sự thất vọng chán chường đã choán trọn tâm trí họ. Các lời của Đấng Cứu Thế “Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào” chẳng được chú ý đến. Đó là những thì giờ ơn phước lớn lao đối với các môn đồ, nhưng họ đã quên tất cả. Họ đang ở giữa những cơn sóng đào. Tư tưởng họ đang chìm ngập trong cuồng phong, mất phương hướng, và Chúa đã gửi đến cho họ một điều gì khác nhằm làm linh hồn họ phải đau đớn khổ sở, đồng thời để chiếm ngự tâm trí họ. Đức Chúa Trời vẫn thường làm vậy mỗi khi con người tự tạo cho mình những gánh nặng và rắc rối. Còn đối với các môn đồ thì họ chẳng cần phải tạo ra rắc rối đâu, mà ngay lúc này hiểm họa đang ập đến với họ. CCC2 85.3

Một cơn bão dữ dội đã bất thình lình đổ ập xuống trên họ. Quả là một sự thay đổi đột ngột, vì cả ngày hôm ấy, thời tiết rất êm dịu. Nên khi gió mạnh bất ngờ nổi dậy và đập vào thuyền, họ vô cùng sợ hãi. Họ quên mất sự bất mãn, vô tín, mất kiên nhẫn mà từ bây đến giờ đang choán trọn lòng họ. Mọi người đều ra sức để giữ con thuyền cho khỏi bị chìm. Chỉ còn một đoạn ngắn trên biển từ Bết-sai-đa tới địa điểm họ định sẽ gặp Đức Chúa Giê-su, và trong thời tiết bình thường, cuộc hành trình chỉ mất mây tiếng đồng hồ, nhưng lúc ấy, họ càng ngày càng bị đẩy xa khỏi địa điểm họ định đi tới. CCC2 86.1

Đến canh tư đêm ấy, họ đã phải chèo chống vô cùng vất vả. Những con người mệt mỏi đã cầm chắc cái chết trong tay. Trong giông tố và tối tăm, biển đã dạy cho họ biết về sự bất lực vô năng của chính họ và họ mong ước ngay lúc này Thầy của họ đang ở nơi đây. Đức Chúa Giê-su đã không quên họ. Người Gác Biển đã thấy những con người sợ hãi đang phải vật lộn với bão tố. Không có lúc nào Ngài không để mắt đến các môn đồ. Với sự quan tâm ân cần, sâu sắc, ánh mắt Ngài dõi theo con thuyền đang bị bão tố nhồi lên ném xuống cùng với những con người Ngài yêu mến đang ở trong thuyền, bởi vì những con người đó sẽ là ánh sáng của thế gian. Như một người mẹ trong tình thương dịu hiền chăm lo cho đứa con của mình, người Thầy đầy lòng cảm thông cũng đang chăm sóc các môn đồ của Ngài như vậy. Khi lòng họ chịu khuất phục, tham vọng không thánh thiện bị tiêu tan, và trong sự khiêm nhường, họ cầu xin sự giúp đỡ, thì sự giúp đỡ đã được gửi đến cho họ. CCC2 86.2

Vào chính lúc họ tin mình sẽ chết mất, thì một tia sáng lóe lên, giúp họ thấy một dung mạo bí ẩn đang bước đi trên những con sóng mà tiến lại gần họ. Nhưng họ không biết đó là Đức Chúa Giê-su. Họ đã coi Đấng đang đến để giúp đỡ họ như một kẻ thù. Sự kinh hãi bao trùm lấy họ. Những bàn tay vốn đã bám chặt vào mái chèo với những bắp thịt như sắt đã phải buông ra. Con thuyền đu đưa theo ý muốn của sóng biển; mọi ánh mắt đổ dồn về sự xuất hiện của một dung mạo bí ẩn đang đi trên các ngọn sóng tung bọt trắng xóa. Họ nghĩ đó là một bóng ma báo hiệu sự tận diệt, và họ la lên vì sợ hãi. Đức Chúa Giê-su đi tới như thể Ngài muốn bỏ qua họ; nhưng họ nhận ra Ngài và la lên, xin Ngài cứu giúp. Người Thầy yêu kính của họ quay lại, giọng nói của Ngài làm nỗi sợ hãi của họ tiêu tan: “Các ngươi hãy yên lòng; ấy là Ta đây, đừng sợ!” CCC2 86.3

Họ vừa mới nhận ra biến cố phi thường, thì Phi-e-rơ gần như mừng quýnh lên. Ông la lớn: “Lạy Chúa, nếu phải Chúa, xin khiến tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa. Ngài phán rằng: Hãy lại đây!” Khi ngước nhìn Đức Chúa Giê-su, Phi-e-rơ bước đi một cách vững vàng. Nhưng khi quay lại nhìn các bạn hữu còn lại trong thuyền với lòng tự mãn, ông đã không để mắt đến Chúa Cứu Thế nữa. Gió thổi dữ dội. Sóng lên cao và đổ xuống ngay khoảng giữa Phi-e-rơ và Thầy. Phi-e-rơ hoảng sợ. Trong khoảnh khắc, ông đã không còn thấy Đấng Cứu Thế, và lòng tin trong ông biến mất. Ông bắt đầu chìm xuống. Nhưng khi các đợt sóng chết người ập đến, thì Phi-e-rơ đưa cặp mắt vượt lên bên trên những cơn sóng dữ và nhìn chăm chăm vào Đức Chúa Giê-su, Phi-e-rơ la lớn: “Chúa ôi, xin cứu lấy tôi!”. Tức thì Đức Chúa Giê-su nắm lấy bàn tay đang giơ ra của Phi-erơ và nói: “Hỡi người ít đức tin, sao ngươi hồ nghi làm vậy?”. CCC2 87.1

Phi-e-rơ cùng bước đi với Chúa Cứu Thế, tay Phi-e-rơ trong tay Thầy, hai người cùng bước vào thuyền. Nhưng Phi-e-rơ lúc này đã bị khuất phục và không thốt nên lời. Ông chẳng có lý do gì để kiêu hãnh với các bạn, bởi vì do không tin và tự mãn, ông suýt phải bỏ mạng. Khi mắt không còn hướng về Đức Chúa Giê-su nữa thì ông thấy chân mình sụp xuống và chìm trong sóng nước. Khi tình trạng lộn xộn đến với chúng ta, biết bao lần chúng ta đã xử sự như Phi-e-rơ. Chúng ta nhìn vào các đợt sóng thay vì mắt phải ngó chăm vào Cứu Chúa. Chúng ta trượt chân, và những cơn sóng hung hãn đổ trên linh hồn chúng ta. Đức Chúa Giê-su đã không truyền cho Phi-e-rơ đến với Ngài để ông phải bỏ mạng. Ngài đã không kêu gọi chúng ta theo Ngài để rồi bỏ rơi chúng ta. Ngài phán: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi. Ta đã lây tên ngươi gọi ngươi; ngươi thuộc về Ta. Khi ngươi vượt qua các dòng nước, Ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ chẳng che lấp. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa chẳng đốt ngươi. Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơra-ên, Cứu Chúa ngươi.” (Ê-sai 43:1-3). CCC2 87.2

Đức Chúa Giê-su đọc được tâm tính các môn đồ của Ngài. Ngài biết lòng tin của họ đã bị thử thách cam go làm sao. Qua biến cố xảy ra trên biển này, Ngài mong muốn bày tỏ cho Phi-e-rơ thấy sự yếu đuối của chính ông, hầu cho ông thấy rằng sự an toàn luôn lệ thuộc vào quyền năng của Đức Chúa Trời. Giữa sóng gió của cơn cám dỗ, ông chỉ bước đi an toàn khi nào ông không đặt niềm tin vào chính bản thân mình mà đặt vào Cứu Chúa. Chính lúc Phi-e-rơ cho rằng mình mạnh mẽ lại là lúc ông yếu đuối; và không phải cho tới khi ông nhận ra sự yếu đuối đó, ông mới hiểu rằng mình cần phải lệ thuộc vào Đấng Cứu Thế. Nếu ông đã học được bài học Đức Chúa Giê-su dạy dỗ qua kinh nghiệm trên biển ấy, ông sẽ không sa ngã khi thử thách nặng nề xảy đến. Hết ngày này sang ngày khác, Đức Chúa Trời dạy dỗ các con cái Ngài. Qua các tình huống trong đời thường, Ngài đang chuẩn bị cho họ để họ thi hành phận sự trong phạm vi hoạt động rộng hơn mà sự quan phòng của Ngài đã chỉ định. Chính kết quả sự thử thách hằng ngày ấy quyết định sự toàn thắng hay thảm bại trong những cuộc thử thách cam go của cuộc sống. CCC2 87.3

Những ai không chịu nhìn nhận rằng mình luôn lệ thuộc vào Đức Chúa Trời sẽ ngã gục trong cơn cám dỗ. Lúc này chúng ta có thể giả thiết rằng chân chúng ta đứng vững và chúng ta sẽ không bao giờ bị lung lay. Chúng ta có thể tin tưởng nói rằng: Tôi biết tôi đã tin ở ai, không gì có thể làm lung lay lòng tin của tôi nơi Đức Chúa Trời và Lời của Ngài. Nhưng Sa-tan đang tìm cách khai thác những khiếm khuyết, lòng mê đắm thế gian trong tánh hạnh chúng ta, và che mắt chúng ta trước các nhu cầu và khiếm khuyết của chính mình. Chỉ với ý thức về sự yếu đuối của mình và bằng cách cương quyết nhìn xem Đức Chúa Giê-su, chúng ta mới có thể bước đi an toàn. CCC2 88.1

Đức Chúa Giê-su vừa bước tới chỗ của Ngài trên thuyền thì gió yên lặng, “tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi”. Đêm kinh hòang đã nhường chỗ cho bình minh. Các môn đồ cùng những người khác trên thuyền sấp mình xuống chân Đức Chúa Giê-su thốt lên những lời với lòng biết ơn vô hạn: “Thầy thật là Con Đức Chúa Trời!” CCC2 88.2