Sau khi cha qua đời, giọng nói thiêng liêng lại kêu gọi ông tiếp tục di tản. Ngoài Sa-ra vợ Áp-ra-ham, chỉ có Lót chấp nhận đời sống du mục cùng với ông. Áp-ra-ham sở hữu nhiều đàn chiên đông đúc và rất nhiều tôi tớ. Ông không bao giờ trở về quê hương nên đã dẫn theo mọi thứ mà ông có — “cả gia tài đã thâu góp và các đầy tớ đã được tại Cha-ran”. Lúc còn ở Cha-ran, cả hai vợ chồng Áp-ra-ham và Sa-ra đã hướng dẫn mọi người thờ kính Chúa chân thật. Những người này đã cùng đi với ông đến miền đất hứa, “vùng đất Ca-na-an”. KTS 60.3
Nơi đầu tiên họ cư ngụ là Si-chem. Áp-ra-ham dựng trại mình ở một vùng đất rộng lớn, thảo nguyên xanh mướt với nhiều lùm cây ô-li-ve và nguồn suối phun trào. Đó là một vùng đất xinh đẹp và màu mỡ, “một xứ tốt tươi, có nhiều khe, suối, nước sâu phun lên trong trũng và trên núi; xứ có lúa mì, lúa mạch, dây nho, cây vả, một vùng đất của dầu ô-li-ve và mật” (Phục Truyền Luật Lệ ký 8:7,8). Nhưng một cái bóng nặng nề đã ngự trị trên những ngọn đồi cây cối rậm rạp và đồng bằng cây trái trĩu quả — dân chúng xây dựng những bàn thờ cho các thần trong những khu rừng nhỏ, các vật hiến tế được dâng lên bên cạnh các gò, đống. KTS 60.4
Sau đó, “Chúa hiện ra cùng Áp-ra-ham mà phán rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi con đất này”. Đức tin của ông càng mạnh mẽ hơn nhờ lời đảm bảo chắc chắn như vậy. “Rồi tại đó, Áp-ra-ham đã lập một bàn thờ cho Chúa, là Đấng đã hiện đến cùng người”. Trong khi vẫn còn là một người lang thang, ông đã nhanh chóng thực hiện một cuộc hành trình đến một nơi gần Bê-tên, lập một bàn thờ cho Chúa và cầu khẩn danh Ngài. KTS 60.5
Áp-ra-ham đã đặt cho chúng ta một gương mẫu đáng kính trọng. Cuộc đời ông là một cuộc đời cầu nguyện. Bất cứ nơi nào dựng trại, ông cũng lập một bàn thờ gần bên cạnh, kêu gọi mọi người trong trại mình đến tế lễ mỗi sáng và tối. Khi ông ra đi, bàn thờ vẫn được để lại. Những người dân Ca-na-an rày đây mai đó cũng được Áp-ra-ham dạy dỗ, nên bất cứ nơi nào mà họ gặp bàn thờ thì họ cũng thờ lạy Chúa hằng sống tại nơi ấy. KTS 60.6